Anders Erik Limpár (sinh ngày 24 tháng 9 năm 1965) là một cựu cầu thủ bóng đá người Thụy Điển thi đấu ở vị trí tiền vệ. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu thông tin chi tiết để trả lời cho câu hỏi Anders Limpar là ai được tham khảo từ những người thích xem trực tiếp bóng đá qua bài viết sau đây nhé !
Anders Limpar là ai?
Limpar chơi cho các câu lạc bộ IF Brommapojkarna , Young Boys , Cremonese , Arsenal , Everton , Birmingham City , AIK , Colorado Rapids và Djurgårdens IF trong sự nghiệp kéo dài từ năm 1981 đến 2002. Thi đấu quốc tế chính thức từ năm 1987 đến 1996, Limpar đã khoác áo Thụy Điển 58 lần, ghi tổng cộng 6 bàn thắng. Anh đại diện cho Thụy Điển tại Thế vận hội Mùa hè 1988 , FIFA World Cup 1990 , UEFA Euro 1992 , cũng như FIFA World Cup 1994 , nơi Thụy Điển đứng thứ ba. Năm 1991, anh được trao giải Guldbollen là cầu thủ bóng đá Thụy Điển xuất sắc nhất năm.
Sự nghiệp của Anders Limpar
Sinh ra ở Solna với nguồn gốc Hungary, Limpar bắt đầu chơi bóng tại Brommapojkarna , nơi nổi tiếng với việc đào tạo ra những tài năng bóng đá. Sau đó anh chơi cho Örgryte , đội bóng anh gia nhập sau chức vô địch giải VĐQG Thụy Điển năm 1985 . Limpar nhanh chóng trở thành một trong những nhân vật nóng bỏng nhất của bóng đá Thụy Điển và do đó được trao cơ hội chuyển đến Thụy Sĩ với câu lạc bộ Bern Young Boys . Anh tiếp tục thi đấu một mùa giải ở Ý với Cremonese trong mùa giải 1989–90 . Mùa giải đó, Limpar được vinh danh là cầu thủ nước ngoài xuất sắc thứ ba ở Serie A sau Diego Maradona và Lothar Matthäus .
Sự nghiệp câu lạc bộ
Arsenal
Sự nghiệp câu lạc bộ của anh ấy lên đến đỉnh cao khi anh ấy ký hợp đồng với Arsenal vào ngày 8 tháng 7 năm 1990 từ Cremonese với giá 1 triệu bảng. Limpar nhanh chóng gây ấn tượng tại giải Makita ở Wembley và có trận ra mắt chức vô địch trong chiến thắng 3–0 tại Wimbledon vào ngày 25 tháng 8 năm 1990. Anh giành chức vô địch trong mùa giải 1990–91 . Limpar cũng góp mặt trong trận đấu với Manchester United vào ngày 20 tháng 10 năm 1990 và ghi bàn thắng quyết định. Anh ấy đóng một vai trò đặc biệt đáng chú ý trong mùa giải 1990–91, ghi những bàn thắng quan trọng và gây ấn tượng trong mùa giải đầu tiên với lối chơi chạy cánh thú vị và màn trình diễn làm hài lòng khán giả. Chúng bao gồm một hat-trick vào lưới Coventry City trong chiến thắng 6–1 vào ngày cuối cùng của mùa giải Championship, khi đó Arsenal đã là nhà vô địch. Anh đã ghi tổng cộng 13 bàn mùa này, trong đó có 11 bàn ở giải VĐQG. Anh đoạt giải Guldbollen – Cầu thủ Thụy Điển xuất sắc nhất năm – năm 1991.
Trong mùa giải 1991–92 , Limpar ra vào liên tục. Một chấn thương hàm khiến anh phải nghỉ thi đấu vài tuần, nhưng anh vẫn ghi được một số bàn thắng ngoạn mục, bao gồm cả cú sút từ cự ly 40 yard trong chiến thắng 4–0 của Arsenal trước Liverpool vào ngày 20 tháng 4 năm 1992. Một loạt chấn thương đã cản trở anh ấy trong mùa giải tiếp theo và anh ấy vẫn phải ngồi dự bị, bị chấn thương trong chiến thắng tại Liên đoàn và FA Cup năm 1993 của Arsenal. Anh ấy và người quản lý George Graham cuối cùng đã bất hòa và hợp đồng của anh ấy sẽ kết thúc vào tháng 5 năm 1994, Limpar, người đang tìm kiếm một hợp đồng mới tại câu lạc bộ, đã không được Graham đề nghị một hợp đồng nào. Limpar chơi trận cuối cùng cho Arsenal gặp Southampton vào ngày 19 tháng 3 năm 1994. Limpar đã ghi 20 bàn sau 116 lần ra sân cho Arsenal, nơi anh được người hâm mộ yêu mến.
Everton
Ngày hết hạn chuyển nhượng vào tháng 3 năm 1994, Limpar chuyển đến Everton với giá 1,6 triệu bảng. Limpar tiết lộ cách ông nói với các phóng viên vào ngày ký hợp đồng với Arsenal 1990 rằng ông ủng hộ Everton. Anh có trận ra mắt cho Everton trong trận thua trên sân nhà (1–0 trước Tottenham Hotspur) vào ngày 26 tháng 3 năm 1994. Limpar đã giành được quả phạt đền quan trọng cho Everton trong chiến thắng cuối cùng trước Wimbledon năm 1994, giúp bảo toàn vị thế Ngoại hạng Anh của Everton.
Khi chơi cho Toffees, anh đã giành được FA Cup lần đầu tiên vàonăm 1995 . Limpar sau đó đóng một vai trò quan trọng trong trận chung kết Cúp quốc gia tại Wembley, với một pha chạy chỗ từ phần sân nhà dẫn đến bàn thắng ấn định chiến thắng cho Everton do công của Paul Rideout . Anh ấy cũng hoàn thành một đường chuyền ngược dài 50 yard đáng nhớ dẫn đến việc Everton bị loại mà bình luận viên BBC Barry Davies mô tả là “đường chuyền của trận đấu”. Anh ấy cũng đã giành được Lá chắn từ thiện năm 1995 với Everton. Vì vậy, Limpar cuối cùng không còn được yêu thích ở Goodison Park sau mùa giải 1995–96 , chỉ ra sân hai lần cho câu lạc bộ trong mùa giải 1996–97 .
Birmingham City
Vào ngày 20 tháng 1 năm 1997, Limpar được Birmingham City ký hợp đồng với mức phí 100.000 bảng Anh. Anh ra mắt giải đấu vào ngày 1 tháng 2 năm 1997, trong trận thua 2-1 trên sân khách trước Bolton Wanderers . Động thái này tỏ ra không thành công khi anh chỉ ra sân bốn lần trước khi câu lạc bộ kết thúc thời gian ở lại vào tháng 4 năm 1997.
Trở lại Thụy Điển theo dạng chuyển nhượng tự do đến AIK vào mùa hè năm 1997, anh giành được danh hiệu Allsvenskan năm 1998 . Sau hai năm ở Stockholm , anh ký hợp đồng với đội Major League Soccer Colorado Rapids vào tháng 2 năm 1999, nơi anh ở lại cho đến tháng 11 năm 2000. Sau đó anh trở lại Thụy Điển để ký hợp đồng với Djurgårdens IF . Tuy nhiên, anh không thể ra sân cho họ và sớm chuyển đến IF Brommapojkarna , nơi anh bắt đầu sự nghiệp câu lạc bộ của mình. Cuối cùng anh đã nghỉ thi đấu vào tháng 3 năm 2001 ở tuổi 35 vì chấn thương dai dẳng. Ở tuổi 56, Anders có màn trở lại cho Hede IK ở giải hạng 5 Thụy Điển và ghi bàn thắng từ nửa sân bóng.
Sự nghiệp quốc tế
Tổng cộng, Limpar đã có 58 lần khoác áo Thụy Điển, ghi 6 bàn thắng từ năm 1987 đến năm 1996. Anh là thành viên của một trong những đội Thụy Điển thành công nhất mọi thời đại, đội đứng thứ ba tại World Cup FIFA 1994 tại Hoa Kỳ. . Tuy nhiên, anh không đóng vai trò quan trọng trong suốt giải đấu, chỉ ra sân thay người một lần trong trận tranh hạng 3. Anh cũng đại diện cho Thụy Điển tại Thế vận hội Mùa hè 1988 , FIFA World Cup 1990 và UEFA Euro 1992 .
Sự nghiệp huấn luyện
Limpar bắt đầu huấn luyện đội trẻ Djurgårdens IF. Sau đó ông được bổ nhiệm làm trợ lý giám đốc của đội bóng hạng hai Thụy Điển Sollentuna United . Vào tháng 10 năm 2008, ở tuổi 43, anh chơi một trận duy nhất cho đội dự bị Sollentuna United ở vị trí hậu vệ trái.
Cuộc sống riêng tư của Anders Limpar
Sau khi giã từ sự nghiệp bóng đá vào năm 2001, Limpar mở một quán bar, The Limp Bar , ở trung tâm Stockholm , mặc dù nó đã đóng cửa kể từ đó. Năm 2012, Limpar và đồng nghiệp Mikael Crona thành lập công ty Thụy Điển Super Lock, chuyên sản xuất hộp nhựa. Ông hiện là Giám đốc điều hành của trang cá cược BestBetToday.com.
Thống kê
đội tuyển quốc gia | Năm | ứng dụng | Bàn thắng |
---|---|---|---|
Thụy Điển | 1987 | số 8 | 1 |
1988 | 4 | 0 | |
1989 | 6 | 0 | |
1990 | 6 | 1 | |
1991 | 5 | 2 | |
1992 | 10 | 1 | |
1993 | 5 | 0 | |
1994 | số 8 | 0 | |
1995 | 1 | 0 | |
1996 | 5 | 1 | |
Tổng cộng | 58 | 6 |
Trên đây là tất cả thông tin chi tiết giúp bạn trả lời cho câu hỏi Anders Limpar là ai mà chúng tôi tìm hiểu được từ socolive. Hi vọng bài viết này sẽ hữu ích với bạn. Cảm ơn các bạn đã theo dõi.